Việc nghiên cứu phương án xây dựng Cầu Cần Thơ 2 và tuyến dẫn cần đảm bảo sự kết nối thuận lợi với các cảng biển chính, các khu đô thị lớn, khu công nghiệp, cảng cạn, logistic …
Cầu Cần Thơ 2 sẽ giảm tải cho Cầu Cần Thơ hiện hữu
Bộ Giao thông vận tải mới đây đã GTVT mới đây đã có quyết định giao Ban Quản lý dự án Mỹ Thuận tổ chức lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng cầu Cần Thơ 2 và đường dẫn hai đầu cầu. Tuyến cần đảm bảo sự kết nối thuận lợi với các cảng biển chính, các khu đô thị lớn, khu công nghiệp, cảng cạn, logistic…
Từ nay đến năm 2025, Ban Quản lý dự án Mỹ Thuận có trách nhiệm lựa chọn tư vấn lập báo cáo và tận dụng tối đa các kết quả nghiên cứu đã có để phục vụ công tác nghiên cứu, lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án từ đó tiến tới triển khai đầu tư trong giai đoạn 2026 – 2030.
Dự án cầu Cần Thơ 2 là một đoạn tuyến kết nối tuyến cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ và tuyến cao tốc Cần Thơ – Hậu Giang – Cà Mau, là một phần của tuyến đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông.
Dự án có điểm đầu kết nối vào điểm cuối Dự án đường cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ thuộc địa phận tỉnh Vĩnh Long; điểm cuối nối vào điểm đầu tuyến cao tốc Cần Thơ – Hậu Giang.
Tổng chiều dài của Dự án khoảng 15,35 km, trong đó chiều dài cầu chính và cầu dẫn là 4 km; đường dẫn là 11,35km.
Cầu Cần Thơ 2 có vai trò hoàn chỉnh đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông theo quy hoạch, tăng cường kết nối các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đáp ứng nhu cầu vận tải, từng bước hoàn chỉnh mạng lưới giao thông, phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Dự án khi hoàn thành cùng với cầu Đại Ngãi (hoàn thành năm 2026), sẽ bổ sung thêm phương án di chuyển cho các phương tiện muốn lưu thông từ từ TP.HCM qua sông Hậu đến các địa phương thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Hiện, tại cầu Cần Thơ trên Quốc lộ 1 (quy mô 4 làn xe) và cầu Vàm Cống (quy mô 4 làn xe) đang đảm nhiệm vai trò này.
Càu Cần Thơ hiện hữu bắc qua sông Hậu nối liền giữa tỉnh Vĩnh Long và Cần Thơ. Cầu được khởi công xây dựng vào ngày 25/9/2004, khánh thành vào ngày 24/4/2010. Tổng mức đầu tư 4.832 tỷ bằng nguồn Viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Chính phủ Nhật và vốn đối ứng của chính phủ Việt Nam.