Đào tạo nghề, tạo việc làm khẳng định vai trò trong giảm nghèo bền vững

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra kỹ năng và khả năng làm việc đóng góp quan trọng vào giảm nghèo, gắn kết xã hội tốt hơn và ổn định xã hội. Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động sẽ giải quyết được vòng tròn luẩn quẩn: Nghèo đói – không đi học – không có nghề nghiệp – nghèo đói và để người nghèo có cơ hội tham gia vào quá trình tăng trưởng kinh tế cũng như hưởng lợi trực tiếp từ quá trình này.

Vậy vai trò của đào tạo nghề, tạo việc làm trong Giảm nghèo bền vững ra sao; Làm thế nào để phát huy tốt hơn nữa vai trò này; Các đề án, chương trình, dự án… liên quan chúng ta đang nỗ lực triển khai; Các thách thức đặt ra, những kiến nghị giải pháp, chính sách, v.v… 

Những vấn đề này sẽ được đặt ra và giải đáp trong Tọa đàm “Vai trò của đào tạo nghề, tạo việc làm trong Giảm nghèo bền vững”của Báo VietNamNet với sự chia sẻ của 2 vị khách mời:

–        Ông Đào Trọng Độ, Vụ trưởng Vụ đào tạo thường xuyên, Tổng cục Giáo dục Nghề nghiệp, Bộ LĐTBXH

–        TS Nguyễn Hoàng Hà, Cán bộ Chương trình Quốc gia, Văn phòng ILO tại Việt Nam

Mời quý độc giả theo dõi video tọa đàm:

Một trong những chỉ tiêu quan trọng 

Nhà báo Diệu Bình: Thưa các khách mời, quan điểm của quốc tế cũng như Việt Nam về vai trò của đào tạo nghề, tạo việc làm trong Giảm nghèo bền vững ra sao? Ảnh hưởng khi những lĩnh vực này không được các quốc gia xử lý tốt? 

Ông Đào Trọng Độ: Có việc làm và có việc làm bền vững là một trong các tiêu chí cơ bản được quốc tế rất quan tâm. Tại Việt Nam, trong các chương trình phát triển KT-XH, từ xây dựng nông thôn mới, phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hay chương trình Mục tiêu Quốc gia (MTQG) giảm nghèo bền vững… nội dung về đào tạo và tạo việc làm cho các đối tượng mục tiêu luôn là một trong các chỉ tiêu quan trọng. 

Nó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia, đồng thời, cùng với nâng cao kỹ năng, năng lực cạnh tranh… sẽ góp phần vào việc giải quyết các vấn đề của các vùng, các địa phương và các đối tượng ưu tiên. Chẳng hạn, đối với người nghèo, nếu chúng ta có chính sách tốt, hỗ trợ họ từ tư vấn hướng nghiệp, tổ chức đào tạo và giải quyết việc làm sẽ góp phần vào việc giảm nghèo bền vững. 

TS Nguyễn Hoàng Hà: Với tư cách của tổ chức Lao động quốc tế ILO, một tổ chức đại diện của Chính phủ, đại diện của công đoàn và đại diện của giới sử dụng lao động, chúng tôi luôn nhấn mạnh vai trò của giáo dục dạy nghề, đặc biệt trong việc hỗ trợ các đối tượng yếu thế như người nghèo. 

Cách đây 23 năm, năm 1999, trong một hội nghị lao động quốc tế, chương trình về giáo dục dạy nghề đã được đưa thành một chương trình nghị sự, được thảo luận rất sâu. Có một thực tế là các chương trình xóa đói giảm nghèo trước đây của Việt Nam chưa tập trung nhiều vào giáo dục dạy nghề, đặc biệt là cho đối tượng người nghèo. 

Từ đó, ILO đã đưa ra rất nhiều tuyên bố quan trọng, nhấn mạnh vào vấn đề phải xác định giáo dục dạy nghề, đặc biệt là cho đối tượng người nghèo, là nền tảng cho quá trình phát triển KT-XH, cộng đồng nói chung, cũng như các khía cạnh xã hội.


 Từ trái qua: Nhà báo Diệu Bình, TS Nguyễn Hoàng Hà, ông Đào Trọng Độ

Nhà báo Diệu Bình: Xin các khách mời chia sẻ một số thí dụ, bài học kinh nghiệm, con số về đào tạo nghề, tạo việc làm góp phần vào giảm nghèo bền vững, giảm nguy cơ tái nghèo tại các nước và Việt Nam? 

Ông Đào Trọng Độ: Trong các chương trình MTQG của các giai đoạn trước cũng có những nội dung liên quan đến đào tạo nghề. Trong Đề án đào tạo nghề lao động nông thôn cũng xác định đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người nghèo là một trong những chỉ tiêu quan trọng. 

Theo thống kế của chúng tôi, trong giai đoạn từ 2010 – 2020, thực hiện đề án này, đã có gần 20% người thuộc hộ nghèo được đào tạo nghề và có việc làm. Trong đó có trên 10% trong tổng số hộ nghèo khi được đào tạo nghề có việc làm, có thu nhập ổn định và giảm nghèo một cách bền vững. 

Khi chúng tôi khảo sát ở các vùng nông thôn, các huyện nghèo, đã có rất nhiều mô hình đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, vừa là việc làm tại chỗ, vừa là việc làm chuyển dịch cho người lao động thành công. 

Điển hình ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Lạng Sơn, Cao Bằng… vừa đào tạo nghề vừa phát huy thế mạnh về sản xuất của địa phương gắn với các sản phẩm. Ví dụ, mô hình trồng na ở Lạng Sơn. Người nghèo ở Lạng Sơn trước đây chưa biết ứng dụng KHCN hay áp dụng kiến thức vào trong sản xuất hay tính toán… Tuy nhiên, khi được đào tạo nghề, họ biết áp dụng, cách đưa sản phẩm ra thị trường… 

Hay tại Cao bằng có những vùng nguyên liệu rất tốt, nhưng trước đây người nông dân chủ yếu sản xuất, canh tác theo hướng truyền thống. Khi đưa đào tạo nghề vào, chúng tôi đã phải làm rất lâu, từ thay đổi nhận thức, cách làm, rồi phải xây dựng mô hình, vận động cán bộ, người có uy tín ở cộng đồng làm trước, sau đó cộng đồng thấy hiệu quả mới làm theo. Sau 2 – 3 năm xây dựng những mô hình, dần dần người dân địa phương bắt đầu nhận ra hiệu quả trong việc thay đổi cách thức sản xuất. 

Hay việc đào tạo ngoại ngữ, kỹ năng giúp người lao động ở các huyện nghèo để đi làm việc ở nước ngoài cũng cho hiệu quả rất tốt, tạo ra sức bật để người lao động khi trở về có vốn, có kiến thức, thay đổi tư duy sản xuất kinh doanh. Nó không chỉ tác động với hộ gia đình đó, mà sẽ có tác động lan tỏa đến cả một cộng đồng. 

Chúng tôi cũng cùng tổ chức ILO xây dựng một số mô hình, ví dụ như mô hình gắn với du lịch cộng đồng ở các tỉnh miền Trung đã tạo ra hiệu quả rất lớn. Trước đây nhiều thanh niên ở đó đi ra các tỉnh, thành phố làm việc. Nhưng khi được đào tạo, hỗ trợ trong việc làm, hỗ trợ cả về khôi phục lại các điểm du lịch… những thanh niên đi ra ngoài không có việc làm đã quay về học nghề và làm việc ngay tại địa phương, tạo ra giá trị ngay trên chính mảnh đất quê hương.

TS Nguyễn Hoàng Hà: Giáo dục dạy nghề là vấn đề chung và được ưu tiên ở các nước, cả các nước phát triển và đang phát triển. Ví dụ trong Liên minh châu Âu có các chính sách khuyến khích kết hợp giữa các trường và các doanh nghiệp (DN). Trong đó có khái niệm thú vị là: “Trường học tại nơi làm việc”. 

Ở các nước như Thụy Sĩ, CHLB Đức, họ luôn có chương trình kết hợp giữa đào tạo văn hóa và dạy nghề. Thí dụ, từ thứ Hai đến thứ Ba, các em học về văn hóa, thứ Tư đến thứ Sáu, các em ở DN học nghề cụ thể. 

Ở khu vực châu Á, Bangladesh hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề cho cả khu vực chính thức và phi chính thức. Họ kết hợp và không phân ra phi chính thức đào tạo riêng, chính thức đào tạo riêng. Như vậy, họ hỗ trợ được rất nhiều cho nhóm yếu thế. 

Philippines có những chương trình rất thú vị như chương trình tài chính hỗ trợ cho sinh viên nghèo, hay chương trình học bổng để kết hợp và có sự hỗ trợ của DN, tạo ra những học bổng hỗ trợ cho sinh viên hay những chương trình đào tạo chuyên biệt về vấn đề việc làm.

Hàn Quốc là quốc gia phát triển cũng có nhiều chương trình khác nhau và rất hiệu quả như Làm việc trước, đồng nghiệp sau – tức là kết hợp lao động ở trình độ trung học, làm việc với DN, sau đó DN tuyển dụng các em vào lực lượng lao động của mình. Hay chương trình hỗ trợ trực tiếp những người thất nghiệp, hay những lao động ở trong các DN vừa và nhỏ, những đối tượng có nhiều rủi ro… 

Chúng ta cố gắng học hỏi được những sáng kiến mới của các nước, từ đó sẽ đưa ra được những chương trình phù hợp.

Nhà báo Diệu Bình: Xin các vị khách mời chia sẻ về những đóng góp, hợp tác của các cơ quan, tổ chức như Tổng cục Giáo dục Nghề nghiệp, ILO… trong vấn đề đào tạo nghề và giải quyết việc làm?

Ông Đào Trọng Độ: Những năm qua Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp đã tham mưu với Chính phủ để ban hành các chính sách, chương trình để xây dựng hệ thống giáo dục nghề nghiệp (GDNN) mang tính chất mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả và hội nhập. Tức là tạo điều kiện cho tất cả mọi người dân, người lao động khi xuất hiện nhu cầu cần đào tạo sẽ phải có chỗ, có chương trình đào tạo phù hợp với mình. 

Chúng tôi cũng tham mưu để sửa đổi các hệ thống văn bản luật, chính sách, chương trình có liên quan, để GDNN là nội dung quan trọng được đưa vào các chương trình, đề án… phát triển KT-XH của các ngành, các lĩnh vực… 

Các cơ sở GDNN cũng nỗ lực hết sức trong việc nâng cao năng lực và khả năng đào tạo của mình. Toàn bộ hệ thống GDNN hàng năm tuyển sinh, đào tạo cho từ 2,2 – 2,5 triệu lượt người. Đây là một yếu tố quan trọng trong vấn đề tạo việc làm cũng như việc từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tỉ lệ lao động qua đào tạo. 

Hiện nay, ở Việt Nam, tỉ lệ lao động qua đào tạo nói chung thì cao, chiếm khoảng gần 70% nhưng số lao động qua đào tạo mà có bằng cấp, chứng chỉ còn khiêm tốn, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Vì vậy, hệ thống GDNN không chỉ đào tạo ban đầu, không chỉ cho học sinh tốt nghiệp các cấp,  mà cũng phải tập trung đào tạo lực lượng chất lượng cao. 

Bên cạnh đó, còn lực lượng lao động rất lớn đang làm việc trong thị trường lao động, nếu không có chương trình đào tạo phù hợp sẽ khó nâng cao chất lượng vì họ còn phải đi làm. 

Cái chúng tôi hướng tới là tạo ra hệ thống GDNN mở, đồng thời từng bước tiếp cận với trình độ khu vực và thế giới. Trong các kỳ thi kỹ năng nghề của khu vực chúng ta luôn ở thứ hạng cao. Còn ở cấp độ thế giới, trước đây chúng ta mới chỉ đạt được chứng chỉ nghề hoặc huy chương đồng. Năm 2022 chúng ta có hai sinh viên đạt huy chương bạc, điều này cho thấy chất lượng đào tạo và kỹ năng nghề của người lao động Việt Nam từng bước được nâng lên. 

Những kết quả đó từng bước tạo ra sự thay đổi trong nhận thức của người dân, của xã hội về đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động. 

Trước đây, chúng ta nghĩ đại học là con đường duy nhất nhưng dần dần suy nghĩ đã thay đổi. Mỗi người có nhiều cách thức, con đường khác nhau để có thể thành công, miễn là phù hợp với khả năng, điều kiện của bản thân và gia đình, phù hợp với nhu cầu nhân lực của địa phương, quốc gia trong từng giai đoạn. 

Đó là thành tựu mà hệ thống GDNN đã tạo ra trong những năm qua. Quá trình hội nhập, tác động của chuyển đổi số, của công nghệ, của thay đổi cơ cấu sản xuất… sẽ đặt ra nhiều thách thức nhưng những thành tựu bước đầu sẽ là nền tảng quan trọng để hướng tới kết quả và thành công lớn hơn trong thời gian tới.

TS Nguyễn Hoàng Hà: ILO là cơ chế ba bên. Thành tựu của ILO trong vấn đề GDNN, giải quyết việc làm chính là thành tựu của các đối tác, chẳng hạn một số dự án của Tổng Cục giáo dục nghề nghiệp mà anh Đào Trọng Độ vừa nêu ra là hợp tác cùng ILO.

Chúng tôi luôn coi đào tạo kỹ năng và GDNN là vấn đề ưu tiên trong mỗi chương trình hợp tác khung của ILO. Vừa rồi, chúng tôi có đánh giá giai đoạn 5 năm trở lại đây, thì một trong những thành công lớn nhất là gây dựng được khung hợp tác, hỗ trợ tối ưu cho các đối tác của Việt Nam, để xây dựng ra các chương trình hợp tác kỹ thuật về vấn đề đào tạo nghề… 

ILO và Tổng Cục giáo dục nghề nghiệp cũng sắp khởi động một dự án về dự báo kỹ năng trong ngành dệt may. Tuy nói riêng là ngành dệt may nhưng đồng thời có thể mở ra nhiều hướng của các ngành khác. 


 Giáo dục dạy nghề là vấn đề chung và được ưu tiên ở các nước, cả các nước phát triển và đang phát triển

Hỗ trợ người nghèo tiếp cận GDNN thuận lợi hơn

Nhà báo Diệu Bình: So với giai đoạn trước, chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025 đã bổ sung thêm chiều về việc làm. Các ông đánh giá thế nào về điều này? 

TS Nguyễn Hoàng Hà: Không có việc làm hay thiếu việc làm được đánh giá là một nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo. Trong 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) thì mục tiêu số 8 đề cập đến việc làm năng suất và việc làm thỏa đáng. 

Việc làm thỏa đáng ít nhất phải bao hàm được các khía cạnh như: vấn đề quyền làm việc của người lao động; vấn đề họ được tham gia vào các tiến trình xây dựng các chính sách; vấn đề được bảo trợ, bảo vệ xã hội bao trùm, đặc biệt là với các nhóm người lao động yếu thế… 

Đôi khi nói đến tạo việc làm, chúng ta chỉ nói đến việc làm thôi: số lượng bao nhiêu việc làm được thành lập, bao nhiêu việc làm mới được tạo ra, bao nhiêu người được tham gia vào thị trường đó… Nhưng chúng ta phải nhìn nhận về cả khía cạnh quyền của người lao động nữa, vấn đề về các quyền lợi được bảo trợ xã hội như thế nào, tham gia BHXH, BHTN… 

Và cũng phải đảm bảo công việc đó phải có thu nhập, tức là ít nhất có thu nhập để mức tiêu dùng cao hơn chuẩn nghèo. Nếu có việc làm nhưng thu nhập thấp quá không đảm bảo đời sống của người dân thì cũng không ổn. 

Vì vậy khi bàn vấn đề này chúng ta phải nhìn một cách tổng thể về các khía cạnh như tôi đã đề cập ở trên.

Nhà báo Diệu Bình: Thưa các khách mời, nội dung đào tạo nghề và việc làm bền vững được đề cập và đóng vai trò ra sao trong Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025? 

Ông Đào Trọng Độ: Trong các chương tình MTQG giảm nghèo của giai đoạn trước, đào tạo nghề, việc làm chỉ được đề cập ở 1 khía cạnh. Nhưng trong chương trình MTQG giảm nghèo giai đoạn 2021 – 2025, nội dung về đào tạo nghề và giải quyết việc làm được thiết kế thành một dự án riêng là dự án số 4 và nó có mục tiêu, lộ trình và các chỉ tiêu cụ thể. 

Đây là một trong những thay đổi trong cách tiếp cận để giải quyết vấn đề giảm nghèo bền vững, tiếp cận ở góc độ người lao động có kỹ năng, có việc làm một cách thỏa đáng, bền vững. Đó chính là cái căn cơ để giải quyết các vấn đề thiếu hụt khác như: thiếu hụt về thu nhập, thiếu hụt về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản…

Nếu chỉ tác động vào vấn đề hỗ trợ cho họ theo kiểu thiếu ăn hỗ trợ gạo… như chúng ta vẫn nói từ trước đến nay là cho con cá hay cần câu, mà không giải quyết việc làm bền vững cho họ, hay nói cách khác, nếu họ có cần câu mà không có động lực đi câu cũng không giải quyết được vấn đề. 

Do đó, việc đào tạo nâng cao kỹ năng, nhận thức là một trong những vấn đề được đề cập sâu cũng như có các chỉ tiêu cụ thể, vừa tạo việc làm tại chỗ như thế nào, vừa là hỗ trợ tư vấn hướng nghiệp như thế nào, vừa có những chỉ tiêu về người lao động được hỗ trợ đào tạo, rồi hỗ trợ đào tạo kỹ năng, hỗ trợ đào tạo ngoại ngữ để nếu có nhu cầu có thể tham gia làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng…

Vấn đề nữa cũng quan trọng, đó là trước đây với đối tượng nghèo ở khu vực có điều kiện KT-XH khó khăn, chủ yếu chúng ta chỉ hướng đến đào tạo cho họ kỹ năng cơ bản, tức là đào tạo trình độ sơ cấp hay đào tạo ngắn hạn dưới 3 tháng. Chương trình lần này đã thiết kế ngoài những hỗ trợ cho đối tượng lao động đó thì phải hỗ trợ đào tạo trình độ cao, nghĩa là đào tạo trung cấp, cao đẳng để họ có được kỹ năng cao, có năng suất, việc làm tốt hơn, thì sẽ giải quyết


Ông Đào Trọng Độ

 TS Nguyễn Hoàng Hà: Theo đánh giá của chúng tôi, điểm rất mới của chương trình MTQG giảm nghèo giai đoạn 2021 – 2025 là dự án số 4 về phát triển GDNN và việc làm bền vững. 

Trong đó có 2 tiểu dự án: một là tiểu dự án về phát triển GDNN ở vùng nghèo, vùng khó khăn dự kiến đầu tư rất lớn, khoảng 15.300 tỷ đồng; hai là hỗ trợ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo Luật số 69/2020/QH14 của Quốc hội cũng dự kiến có khoảng 570 tỷ đồng.

Như vậy, điểm mới là đầu tư nguồn ngân sách của Nhà nước có trọng điểm và có đối tượng đích rất rõ rệt và tạo ra động lực phát triển cho các địa phương, bản thân người lao động và người nghèo. 

Một điểm mới nữa là xác định các chủ thể rất rõ ràng: Nhà nước tạo ngân sách, tạo điều kiện về chính sách, có môi trường đầu tư phù hợp để thực hiện; các trường nghề được tạo điều kiện để phát triển… và có cả phần hỗ trợ cho chủ thể là người lao động. 

Trước đây chúng ta vẫn nói các cơ sở đào tạo hay cơ quan quản lý nhà nước cần phải thúc đẩy vấn đề này, vấn đề kia… Tuy nhiên tôi thấy điểm mới trong chương trình này là chú trọng cả đối tượng được thụ hưởng, để họ làm việc có kỹ năng tốt và chủ động tham gia vào tiến trình này để tối ưu nguồn đầu tư của nhà nước.

Nhà báo Diệu Bình: Theo các ông, đào tạo nghề và tạo việc làm bền vững hướng vào mục tiêu giảm nghèo có gì khác biệt so với vấn đề đào tạo nghề và tạo việc làm nói chung hay không, chẳng hạn về các thiết kế, trọng tâm chương trình…? 

Ông Đào Trọng Độ: Đào tạo nghề, giải quyết việc làm là mục tiêu quốc gia. Tất cả các đối tượng, người lao động khi tham gia thị trường lao động đều cần được đào tạo, cần có kỹ năng, từ đó nâng cao năng suất quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, từng địa phương cũng vậy. Muốn thu hút đầu tư DN, thu hút vốn FDI nước ngoài vào, ngoài các điều kiện về chính sách, về đất đai, một trong những yếu tố quan trọng là chất lượng nguồn nhân lực.

Tại sao chúng ta thiết kế những mục tiêu cho đối tượng người nghèo? Chúng ta vẫn có khẩu hiệu “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, người nghèo thường ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn hơn, họ khó tiếp cận hơn, từ khu vực địa lý, kinh tế – xã hội. 

Do vậy, về mặt tổng thể chung sẽ không khác nhau nhưng về mặt chính sách, nó thể hiện sự ưu việt của chính sách, của nhà nước. Đó là hỗ trợ có mục tiêu đến các đối tượng trọng tâm. Trọng tâm là người nghèo, người mới thoát nghèo, người ở vùng nghèo, người có thu nhập thấp. 

Ở vùng đồng bằng, thành phố, thành thị… người dân thường có điều kiện hơn. Nhưng ở vùng nghèo, đối tượng nghèo, điều kiện tiếp cận giáo dục khó hơn, chúng ta phải có chính sách hỗ trợ cho họ, tạo cú hích, tạo động lực cho vùng nghèo phát triển. 

Ngay như với vấn đề đào tạo nghề, thường vùng nghèo cơ sở GDNN ít hơn, ít được quan tâm hơn, thu hút được người giỏi về dạy cũng khó hơn, cơ sở vật chất lạc hậu hơn, đi lại khó khăn hơn. Vì vậy muốn người nghèo, người thu nhập thấp ở vùng khó khăn được tiếp cận với chiều thiếu hụt này, nhà nước phải có chính sách đầu tư trọng tâm vào vùng đó để thúc đẩy đào tạo, đào tạo kỹ năng, thúc đẩy khả năng, điều kiện tiếp cận cho người lao động ở những vùng đó tốt hơn, thuận lợi hơn. 

Không thể bắt người nghèo ở xã nghèo, huyện nghèo lại ra thành phố, đến các vùng trung tâm để học, vì họ còn phải lo nhiều thứ hơn hoặc điều kiện khó hơn. Vì vậy, chúng ta phải mang các chương trình đầu tư tốt hơn vào những vùng đó, để người nghèo và các đối tượng yếu thế dễ tiếp cận nhất, nhằm nâng cao điều kiện và chất lượng nhân lực của các vùng này và tạo ra cú hích, vừa nâng cao chất lượng nhân lực lên thì sẽ giải quyết được các vấn đề khác. 

TS Nguyễn Hoàng Hà: Tôi đồng ý với ý kiến anh Độ về đầu tư trọng điểm, tránh dàn trải và đầu tư có hiệu quả. Mặt khác ở đây còn có vấn đề giai đoạn nữa.

Văn kiện Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ XIII có nhấn mạnh về chất lượng nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó nêu ra khát vọng rất lớn của Việt Nam là đến năm 2045, tức là 100 năm thành lập nước, Việt Nam sẽ thành quốc gia có thu nhập cao. 

Việt Nam có hai điểm phấn đấu. Một là nguồn nhân lực chất lượng cao, hai là khát vọng của đất nước, để trở thành đất nước thu nhập cao. Khi ở cái tầm những nước thu nhập cao thì lúc đó vấn đề đầu tư của chúng ta sẽ được đặt ra là đầu tư một cách công bằng, cân bằng. Đầu tư cân bằng ở đây là với mọi đối tượng, mọi khu vực đều phát triển như nhau, đất nước mới đảm bảo được công bằng xã hội. 

Mục tiêu trong ngắn hạn và trung hạn là làm sao để người lao động nghèo, đối tượng nghèo tham gia quá trình học tập về kỹ năng, được tham gia các lớp về giáo dục dạy nghề, họ có thể tham gia được thị trường lao động.  

Nhưng về dài hạn, cần phải có hệ thống GDNN mở, công bằng, đảm bảo cho mọi đối tượng, mọi thành phần đều được hưởng lợi từ quá trình đó và đầu tư của Nhà nước là đảm bảo tính cân bằng, không chỉ vùng khó khăn, vùng nghèo, vùng miền núi… mà là tất cả các địa phương, các khu vực.


 TS Nguyễn Hoàng Hà

 Đại dịch gây nhiều thách thức nghiêm trọng nhưng cũng tạo ra cơ hội

Nhà báo Diệu Bình: Đại dịch Covid-19 tác động đến tiến trình, đến những thành quả của đào tạo nghề và tạo việc làm bền vững trong giảm nghèo bền vững của Việt Nam ra sao? Từ đây đặt ra những thách thức nào, thưa các khách mời?

Ông Đào Trọng Độ: Đại dịch Covid-19 tác động một cách sâu sắc, toàn diện đến mọi lĩnh vực và mọi đối tượng. Mặc dù Chính phủ đã có những chính sách kịp thời, hỗ trợ cho các đối tượng nhưng về mặt tổng thể, đối tượng, khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất, dễ tổn thương là những lao động không có kỹ năng hay kỹ năng thấp. 

Nhiều DN khi cắt giảm nhân sự, lao động, thu hẹp sản xuất, họ sẽ tìm mọi cách để giữ lại lao động có kỹ năng, trình độ. Người lao động kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng dễ bị mất việc làm nhất. 

Còn đối với quá trình đào tạo nghề, từ tuyển sinh, tổ chức đào tạo… cũng bị ảnh hưởng. Học sinh không thể đến lớp, về quê cũng không quay trở lại được trường. Chúng tôi cũng phối hợp với các tổ chức quốc tế, DN, nhiều cơ quan đơn vị hướng dẫn các trường chuyển đổi hình thức đào tạo như từ trực tiếp sang trực tuyến, trực tuyến kết hợp trực tiếp. 

Chúng tôi luôn vận động để dịch bệnh ít ảnh hưởng nhất đến việc đào tạo. Năm 2020, 2021, hệ thống GDNN vẫn đảm bảo được việc tổ chức đào tạo cho người lao động và từ đó đã rút ra được bài học quan trọng. 

Ví dụ trước đây học sinh chỉ học ở trường lớp nhưng bây giờ điều chỉnh, có thông tư hướng dẫn là DN sẽ tham gia sâu hơn vào quá trình đào tạo, học sinh có thể học lý thuyết trực tuyến nhưng việc thực hành tại nơi sản xuất, DN… Người lao động cũng linh động hơn, việc đào tạo sẽ linh hoạt hơn, DN cũng được tham gia sâu hơn vào quá trình đào tạo. 

Chỉ tiêu chung để phát triển, mở rộng, nâng cao số lượng tuyển sinh cũng có bị ảnh hưởng do dịch bệnh. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng để sự ảnh hưởng ở mức thấp nhất. 

Nhưng nó lại bộc lộc một vấn đề, người lao động khi tham gia thị trường là phải có kiến thức, có kỹ năng mới đảm bảo được việc làm, kể cả việc làm tại chỗ. Một ảnh hưởng nữa là việc làm của người lao động khi học xong, vì dịch bệnh, DN phải thu hẹp sản xuất, thay đổi cơ cấu, công nghệ, chuyển đổi mô hình hoạt động… Thêm vào đó, dịch bệnh khiến việc đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng bị chững lại một thời gian, bị ảnh hưởng. 

Cuối cùng, ảnh hưởng lớn nhất là trong đại dịch các DN bị ngừng hoặc thu hẹp sản xuất, khi trở lại điều kiện bình thường mới, họ phải tập trung nhiều vào quá trình sản xuất để khôi phục lại, do vậy chưa chú ý được vấn đề đào tạo, nâng cao kỹ năng của người lao động. 

Tuy vậy, đến giai đoạn hiện nay, những ảnh hưởng này cơ bản đã được khắc phục. DN tham gia sâu hơn vào quá trình đào tạo. Người lao động sau khi tham gia học tập tại hệ thống GDNN có chất lượng thu nhập tốt hơn. 

TS Nguyễn Hoàng Hà: Covid-19 là đại dịch và ảnh hưởng đến toàn cầu, trong đó có Việt Nam, đặt ra thách thức rất lớn về việc thực hiện các chính sách của Nhà nước.

Điều này đặt ra cho chúng ta yêu cầu cần có khả năng dự báo về các thách thức tương tự trong tương lai. Bởi, có thể nó không phải là Covid-19 nhưng có thể là dịch bệnh, biến cố nào đó… cũng có tác động như vậy. Khi có công tác dự báo tốt, công tác chuẩn bị cho khủng hoảng sẽ tốt hơn. 

Ở góc độ khách quan, bên cạnh nhiều ảnh hưởng tiêu cực cũng có những tác động tích cực, đặc biệt là lĩnh vực giảng dạy, dạy nghề. Thầy và trò phải tham gia và sử dụng công nghệ nhiều hơn. Trước đây, nhắc đến dùng phần mềm như zoom meeting… để giảng dạy là rất khó nhưng dịch bệnh khiến việc mọi người dùng công nghệ tốt hơn. 

Năng lực của thầy và trò qua quá trình học, sử dụng công nghệ cũng được nâng cao, nhận thức tốt hơn, phù hợp với quá trình chuyển đổi số hiện nay. Nó giống như một giai đoạn đào tạo, lực lượng lao động về mặt kỹ năng số đã tốt hơn.  

Nhà báo Diệu Bình: Đối với những thách thức do dịch Covid-19 tạo ra, Tổng cục đã có giải pháp nào để xử lý và nâng cao hơn nữa việc đào tạo nghề trong tương lai, thưa ông Đào Trọng Độ? 

Ông Đào Trọng Độ: Tổng cục GDNN đã chủ động trình Chính phủ ban hành những chương trình, đề án từ chuyển đổi số cho đến đề án về đào tạo, đào tạo lại cho người lao động thích ứng với cách mạng công nghiệp 4.0; ban hành các văn bản hướng dẫn các cơ sở GDNN chuyển đổi hình thức đào tạo kết hợp, mở rộng các hình thức, phương thức đào tạo.

Bên cạnh đó, trình Bộ LĐTBXH ban hành thông tư quy định DN có thể tham gia sâu hơn, là một chủ thể của quá trình đào tạo. Trước đây trường phối hợp nhưng bây giờ là hai bên cùng hợp tác để DN có thể tham gia vào 40% quá trình đào tạo. Như vậy sẽ linh hoạt hơn và tạo điều kiện để DN chủ động hơn trong vấn đề nguồn nhân lực của mình. 

Bên cạnh đó là đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong GDNN. Các chương trình được số hóa, hệ thống các trường có sự chuyển đổi rất lớn khi có sự hướng dẫn. 

Tổng cục cũng hướng dẫn các trường, các DN tiếp cận các chính sách hỗ trợ, ví dụ: Nghị quyết số 68 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, Quyết định số 23 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch covid-19…

Trong những giai đoạn khó khăn ban đầu, khi dịch bệnh bắt đầu tác động sâu đến Việt Nam, khi nước ta thực hiện giãn cách, nhiều cơ sở GDNN cũng có những chuệch choạc, chưa thể thích ứng, chuyển đổi trạng thái nhanh chóng. Tuy nhiên, đến giai đoạn hiện nay những khủng hoảng đó đã được các cơ sở giải quyết rất tốt. 

Nhiều trường, nhiều cơ sở đã đầu tư chuyển đổi chương trình, như: xây dựng học liệu, xây dựng chương trình đào tạo trực tuyến, các công nghệ ứng dụng… Nhiều trường có hệ thống đào tạo riêng để tất cả sinh viên cũng như giáo viên của trường có thể tham gia một cách linh hoạt và chủ động.

Có thể nói sự thích ứng của hệ thống GDNN trong những năm qua tương đối tốt. Hiện nay, với các chính sách Tổng cục đã trình Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ đã ban hành, các văn bản hướng dẫn của Bộ LĐTBXH, hệ thống GDNN đã thích ứng và chạy tương đối trơn tru, để triển khai các chương trình giảm nghèo đó đến các vùng, các địa phương nhanh nhất. 

Đồng thời, Tổng cục cũng có quy hoạch, chiến lược để bên cạnh tổng thể chung của quốc gia sẽ ưu tiên cho các đối tượng, những vùng khó khăn nhất nhằm tiến tới đảm bảo công bằng, thu hẹp khoảng cách giữa vùng chưa phát triển với vùng đã phát triển. 

Nhà báo Diệu Bình: Ngày nay chúng ta đang bàn nhiều đến việc phát huy ảnh hưởng của công nghệ, CNTT, chuyển đổi số trong rất nhiều tiến trình xã hội, kinh tế… Đối với lĩnh vực cụ thể đang bàn, ý kiến khách mời ra sao? 

TS Nguyễn Hoàng Hà: Trước đây ta hay nói về “công dân toàn cầu”, tức là nói về người công dân toàn diện, được đào tạo đầy đủ để tiếp cận các thị trường lao động khác nhau. Nhưng bây giờ khi bước sang giai đoạn công nghệ thông tin, cách mạng công nghiệp 4.0, ta cần thêm một từ khóa nữa là “công dân số”. 

Việc thúc đẩy phát triển các kỹ năng của thế kỷ 21 đòi hỏi quá trình nỗ lực của không chỉ một chủ thể là Nhà nước mà là sự nỗ lực chung của tất cả các chủ thể tham gia thị trường lao động. Chủ thể Nhà nước xây dựng chính sách, môi trường pháp lý, môi trường thuận lợi để phát triển… Các chủ thể khác như cơ sở GDNN cũng phải phát triển để thích ứng, đưa ra các chương trình thích ứng với quá trình đó. 

Rồi bản thân người lao động muốn thành công dân số cần có nhiều kỹ năng cao như: năng lực về suy luận, tư duy logic, kỹ năng toán học, kỹ năng mềm (khả năng thích ứng môi trường, khả năng làm việc nhóm, kỹ năng trình bày, kỹ năng phản biện…), v.v… 

Từ trước đến nay, trong đào tạo của chúng ta, dường như tính phản biện chưa được sâu, thầy nói trò ghi, chủ thể là người thầy. Bây giờ, người học trò cũng phải là chủ thể, có nghĩa là phải phản biện lại, đưa các ý kiến trái chiều, phải có phân tích khác nhau… 

Một điều nữa, bằng cấp chỉ dừng lại là chứng nhận trong một giai đoạn học tập nhất định nhưng mục tiêu học tập suốt đời rất quan trọng, tức là học thường xuyên, liên tục. Cái đó mới giúp nâng cao năng lực của người lao động, làm chủ công nghệ số, làm chủ các kỹ năng số, để đáp ứng được môi trường chuyển đổi số.

Thúc đẩy DN tham gia sâu vào quá trình đào tạo nghề, tạo việc làm

Nhà báo Diệu Bình: Thưa các khách mời, DN đóng vai trò gì và có thể tham gia ở những khía cạnh nào trong vấn đề đào tạo nghề, tạo việc làm hướng đến giảm nghèo bền vững? Cần có các cơ chế, chính sách gì để đẩy mạnh cũng như tối ưu hóa sự tham gia này? 

Ông Đào Trọng Độ: DN là chủ thể chính, muốn tạo việc làm tốt, thu nhập cao, ổn định cho người lao động, ở các vùng phải có DN.  

Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp cũng như Bộ LĐTBXH đã trình Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích sự tham gia của các DN trong suốt quá trình đào tạo nghề nghiệp. DN không chỉ dừng ở khâu tuyển dụng mà tham gia vào tất cả các khâu của quá trình đào tạo. 

Khi DN đầu tư, họ sẽ đưa ra nhu cầu về nhân lực, không chỉ về mặt số lượng, trình độ, ngành nghề mà đồng thời vấn đề cần quan tâm nữa là mặt thời gian. Bởi đào tạo cần có độ trễ. Khi tham gia ngay từ đầu, DN đưa ra nhu cầu của mình, họ đầu tư vào đâu, tới đây mở rộng phát triển sản xuất ra sao… Nó giống như một sự đặt hàng, đặt hàng cho địa phương, cho cơ quan, nhà nước hay các trường.

Thứ hai, mỗi DN có nhiều vị trí việc làm và muốn người lao động khi học ra có thể thích ứng được ngay thì DN phải tham gia ngay từ đầu, xây dựng và điều chỉnh chương trình đào tạo.

Thứ ba, DN tham gia vào quá trình đào tạo, thực hành, thực tập, cử cán bộ xuống để hướng dẫn học viên, giúp họ tiếp cận với thực tiễn… 

Thứ tư, DN tham gia vào quá trình đánh giá. Trước đây nhà trường đánh giá, DN không đánh giá thì không biết cầm bằng tốt nghiệp ra có làm được việc không? Còn bây giờ, DN sẽ cùng với nhà trường tham gia vào quá trình đánh giá người học có đáp ứng được được yêu cầu làm việc cho mình hay chưa rồi mới đến tuyển dụng, sử dụng. 

Trong quá trình sử dụng lao động, DN vẫn tiếp tục tham gia quá trình phản hồi lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động. Vì công nghệ, sản xuất, mô hình sản xuất, phương thức sản xuất sẽ thay đổi, người lao động cũng luôn phải thích ứng. 

Sự gắn kết như vậy sẽ giúp chủ động nhân lực cho DN khi đầu tư hoặc mở rộng sản xuất. Các cơ sở GDNN cũng từng bước nâng cao năng lực để làm sao đáp ứng nhu cầu của DN, đồng thời người dạy cũng chủ động hơn. Đó là quá trình tác động tương hỗ giữa hai bên, vai trò của DN ngày càng sâu hơn, chủ động hơn trong vấn đề đào tạo nhân lực và chất lượng nhân lực cũng nâng lên, đảm bảo việc đào tạo phải có đích. 

Nếu phát huy được vai trò của DN, chúng ta không phải băn khoăn về vấn đề giải quyết việc làm. 

Nhà báo Diệu Bình: Vậy còn vai trò chủ động của các địa phương, chẳng hạn trong vấn đề dự báo nhu cầu lao động có tay nghề gắn với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đào tạo nghề với quy hoạch phát triển sản xuất… để từ đó làm căn cứ cho việc đào tạo nghề phù hợp? 

Ông Đào Trọng Độ: Từ cấp độ quốc gia đến các địa phương, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn đều có kế hoạch tổng thể hay chiến lược. Ví dụ, ở địa phương sẽ có kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm hay 10 năm, trong đó đã có dự báo địa phương sẽ tập trung phát triển lĩnh vực, ngành nghề gì, làm sao để phát huy thế mạnh của mình… 

Tuy nhiên, trong môi trường kinh tế hội nhập sâu rộng như Việt Nam hiện nay, ngoài công tác dự báo mang tính chất chiến lược dài hạn, cần có những dự báo ngắn hạn và thường xuyên rà soát hàng năm. 

Vì chúng ta kêu gọi đầu tư nước ngoài vào nhưng muốn đón nguồn vốn của DN, tập đoàn lớn phải có sự chuẩn bị nhân lực tốt hơn, phải dự báo được. Nếu như DN có hàm lượng kỹ thuật, chất xám cao, cần phải có sự chuẩn bị, dự báo trước, nếu không cũng chỉ thu hút được DN mang tính chất gia công hoặc công đoạn đơn giản như lắp ráp. 

Ngoài dự báo dài hạn, chúng ta cần có những rà soát, dự báo ngắn hạn hoặc dự báo ngành nghề, kỹ năng mới, cần thiết. Lấy thí dụ ngành dệt may, ngành sử dụng lượng lao động rất lớn, tác động của công nghệ đối với ngành này thể hiện một cách rõ nhất. Chẳng hạn trước đây một công đoạn cần 10 người làm, giờ có máy móc hỗ trợ thì chỉ cần 1 người… 

Đó là sự thay đổi, nếu không dự báo tốt, vẫn đào tạo những kỹ năng cũ, theo kiểu cũ, khi tốt nghiệp người lao động sẽ không sử dụng được.  

Nhà báo Diệu Bình: Các vị khách mời nhìn nhận ra sao về các thách thức trong, ngoài nước đang đặt ra với tiến trình đào tạo nghề, tạo việc làm hướng đến giảm nghèo bền vững? Chẳng hạn tôi được biết mới đây ILO đã đưa ra cảnh báo Thị trường việc làm toàn cầu giảm mạnh trong quý IV/2022… 

TS.Nguyễn Hoàng Hà: Thách thức về thị trường việc làm, nếu nhìn báo cáo của các năm trước và hiện nay khá giống nhau ở một số điểm là họ dự báo được một số ngành nghề có khả năng luôn luôn thiếu lao động có kỹ năng phù hợp. 

Ở Mỹ, thông tin về thị trường lao động khá thú vị, tức là có 50 nghìn việc làm được mở nhưng để người lao động có thể tham gia vào 50 nghìn việc làm đó lại thiếu, vì người lao động thiếu hụt kỹ năng. 

Do đó, tôi đồng tình với ý kiến của anh Độ về vấn đề dự báo về nghề nghiệp, đặc biệt là dự báo về ngành đặc thù. Ta cần có dự báo ngắn hạn và dài hạn. 

Trong phát triển GDNN cần chú ý đến một số vấn đề như năng suất lao động, tham gia trong chuỗi năng suất lao động và trên hết là vấn đề mô hình phát triển KT-XH hiện nay định làm gì? Có thể mãi mãi là lắp ráp điện tử hay may mặc hay không? Mặc dù tham gia vào chuỗi cung ứng nhưng chúng ta tham gia ở mức thấp hay phấn đấu vào chuỗi giá trị cao hơn, v.v…

Kinh tế số cũng có tác động rất lớn, bởi một số ngành sẽ không còn có việc làm nữa. Như ở Việt Nam, có DN sản xuất ô tô sử dụng hầu hết rô-bốt cho cả tiến trình, từ thiết kế cho đến giai đoạn lắp ráp, hoàn thành xe… số lượng kỹ sư sử dụng trong các nhà máy của họ là rất thấp. 

Chúng ta phải làm sao để có những ngành mới. Ví dụ, đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy chuyển đổi số, đòi hỏi người lao động phải có lỹ năng đáp ứng nhu cầu làm việc trên nền tảng số. Nền tảng số có thể nhìn rõ nhất là mua bán trên sàn thương mại điện tử. Đây là ngành nghề rất mới. Trong thời gian tới sẽ có những ngành ít việc hơn nhưng đồng thời một số ngành mới lại có cơ hội xuất hiện. 

Ông Đào Trọng Độ: Tác động của dịch bệnh, của số hóa đã làm thay đổi rất nhiều. Ở Mỹ, thương mại điện tử đã hình thành từ năm 1999 – 2000 nhưng bình quân chỉ tăng khoảng 1,5%. Nhưng chỉ sau 8 tuần nước Mỹ bắt đầu công bố tình trạng dịch bệnh, đã tăng từ 17% – 30%. 

Tác động của dịch bệnh, của công nghệ số… đã tạo ra thay đổi về tâm lý mua sắm, tiêu dùng, dẫn đến cách thức thay đổi, sản xuất cũng thay đổi theo. Khi thị hiếu người tiêu dùng thay đổi, kỹ năng của người lao động cũng phải thay đổi. 

Nếu không thích ứng được, chỉ mãi gia công thì giá trị thặng dư của người lao động trên một sản phẩm sẽ thấp, dẫn đến thành quả họ hưởng sẽ thấp. Nếu người lao động và nền kinh tế của chúng ta muốn chuyển đổi, muốn phát triển nhanh và tham gia chuỗi sản phẩm ở những khâu tạo ra giá trị thặng dư cao nhất, họ phải có kỹ năng tốt. 

Ví dụ, cùng là nghề giúp việc gia đình, lao động Việt Nam mà ra nước ngoài thu nhập sẽ thấp hơn lao động Philippines, vì họ được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, sử dụng công nghệ, tiếng Anh họ tốt hơn, không chỉ giúp việc, họ còn làm quản gia. Có kỹ năng tốt hơn sẽ tạo ra giá trị tốt hơn. 

 
Hướng đến lực lượng lao động chất lượng cao 

Nhà báo Diệu Bình: Có quan điểm cho rằng bên cạnh các chương trình phát triển dạy nghề ngắn hạn cho người nghèo, vùng nghèo cần đặc biệt quan tâm đào tạo nghề chính quy dài hạn, nhất là đào tạo nghề chất lượng cao để phát triển bền vững. Quan điểm của các vị khách mời ra sao? 

Ông Đào Trọng Độ: Trước đây, khi nói đến vùng nghèo hay vùng DTTS, chúng ta hay nói đến chính sách hỗ trợ. Các chính sách mới dừng lại ở hướng tiếp cận cơ bản. Trong đào tạo nghề, nhiều địa phương mới tiếp cận cơ bản là dạy cho người lao động một nghề 3 tháng hoặc sơ cấp để họ tăng năng suất lao động việc làm tại chỗ, như nuôi con gà tốt hơn, biết mang ra chợ bán… 

Thế nhưng để phát triển bền vững, năng suất cao hơn, chúng ta không thể chỉ dừng ở đào tạo cơ bản, sơ cấp, dưới 3 tháng… mà phải có sự phân luồng đào tạo rõ ràng. Một bộ phận vẫn học những kỹ năng cơ bản, ví dụ những người lớn tuổi, đang làm việc tại chỗ như trồng lúa, chăn nuôi, làm thủ công thì có thể chỉ cần đào tạo để họ làm tốt hơn. 

Nhưng với lực lượng lao động trẻ, nếu không đào tạo trình độ cao sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn, năng suất lao động chỉ dừng lại ở mức nào đó và chỉ làm việc tại chỗ. Trong khi, nếu tham gia vào chuỗi sản xuất, ví dụ như trồng lúa, muốn xuất khẩu sang các nước phát triển thì hàm lượng kỹ thuật, chất xám phải cao hơn, không thể chỉ là người nông dân đơn thuần mà phải có kiến thức khoa học kỹ thuật, có khả năng phân tích về môi trường, về điều kiện kỹ thuật, về hàm lượng, thậm chí hiểu về thị trường… Muốn được như vậy, phải đào tạo trình độ cao. 

Chỉ quan tâm đến đào tạo cơ bản, ngắn hạn sẽ không giải quyết được triệt để các vấn đề. Đối tượng lao động trẻ, mới tham gia thị trường lao động thì phải đào tạo trình độ cao mới giải quyết được căn cơ cái vòng luẩn quẩn kỹ năng thấp – thu nhập thấp. Chuẩn nghèo ngày một nâng lên, với thu nhập như vậy bây giờ họ tạm hài lòng vì thoát nghèo nhưng mấy năm sau thu nhập cao lên, chuẩn nghèo cũng sẽ cao lên. 

Nhà báo Diệu Bình: Khi xây dựng Luật Việc làm (sửa đổi) tới đây… Bộ LĐTBXH đề xuất bổ sung nhiều nhóm chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động, tạo việc làm bền vững, nâng cao thu nhập cho người lao động, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp… Nhận định của khách mời ra sao về vấn đề này? 

TS Nguyễn Hoàng Hà: Một trong những mục tiêu lớn của dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) là cần cải cách một cách sâu rộng nhằm tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho tất cả các chủ thể tham gia vào thị trường lao động. Các chủ thể bao gồm: Cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo, người lao động và người sử dụng lao động phải phát huy được tất cả tiềm năng sẵn có để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, hội nhập. 

Việt Nam là một trong những nước có tiến bộ trong việc mở rộng đối tượng, phạm vi điều chỉnh của đối tượng trong Luật Lao động 2019 ra đối tượng không có quan hệ lao động hay hợp đồng lao động. Đây là điểm rất mới. 

Tôi hi vọng tới đây Luật Việc làm (sửa đổi) sẽ bao phủ, cân nhắc phạm vi bảo vệ cả đối tượng là các tài xế làm việc trên nền tảng xe công nghệ. Những đối tượng đó được cho là sử dụng hợp đồng dân sự, ta hay gọi là hợp đồng đối tác. Trong khi, Luật Lao động 2019 đưa ra một số dấu hiệu của quan hệ lao động, những dấu hiệu đó tài xế công nghệ đều có hết, chỉ khác là họ dùng thuật toán, app, ứng dụng để điều chỉnh những cái đó. 

 
Nhà báo Diệu Bình: Thu thập, phân tích, dự báo thị trường lao động, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động để gắn kết đào tạo và sử dụng lao động; xây dựng cơ sở dữ liệu việc tìm người – người tìm việc, hình thành mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở GDNN và các trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao dịch việc làm… có thể hỗ trợ thúc đẩy lĩnh vực đang bàn trong tọa đàm ra sao? Cần làm gì để cải tiến thưa các khách mời? 

Ông Đào Trọng Độ: Trung tâm dịch vụ việc làm là nơi để thu thập thông tin, nhu cầu nhưng họ cũng tạo ra sàn việc làm cho người lao động, người học có thể lựa chọn dễ dàng hơn đối với các chương trình đào tạo. 

Giao dịch việc làm không chỉ tổ chức ở các vùng trung tâm, mà chúng ta đã làm và tới đây cần làm tốt hơn, đó là tạo ra những phiên giao dịch việc làm tại chỗ ở những vùng nghèo, khó khăn để người dân tiếp cận việc làm tốt hơn, có nhiều thông tin hơn. 

Trung tâm dịch vụ việc làm cũng là nơi tư vấn, hỗ trợ người lao động thất nghiệp, người đóng BHTN, tư vấn cho họ việc quay trở lại thị trường lao động hay đào tạo nghề. Việc gắn kết giữa cơ sở GDNN và trung tâm dịch vụ việc làm là yếu tố tương hỗ cho cả hai bên tốt hơn. 

Ngay từ khi Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ ban hành Quyết định về các chính sách hỗ trợ như tư vấn hay hỗ trợ đào tạo nghề cho người tham gia BHTN mất việc làm, Tổng cục giáo dục nghề nghiệp đã có các văn bản gửi các địa phương, yêu cầu các trung tâm dịch vụ việc làm tại các địa phương phải có bàn tư vấn của cơ sở GDNN ở đó. Mục đích là để tư vấn cho người lao động tốt hơn, để họ hiểu nguyên nhân vì sao mất việc làm, họ muốn có việc làm bền vững hơn thì cần phải làm gì, ngoài việc được hưởng chính sách, hỗ trợ từ quỹ họ sẽ được nhận hỗ trợ về đào tạo nghề… 

Trước đây, người lao động đăng ký được hưởng BHTN tương đối đông nhưng tỷ lệ đối tượng này đăng ký học nghề lại tương đối thấp. Sắp tới, Tổng cục giáo dục nghề nghiệp sẽ có văn bản hướng dẫn để trao đổi cụ thể hơn giữa Cục việc làm và Tổng cục. Đồng thời cũng có những chương trình phối hợp chặt chẽ với nhau. Ở cấp địa phương cần có hướng dẫn, chỉ đạo sát sao hơn, đặc biệt là sự gắn kết giữa Trung tâm dịch vụ việc làm và cơ sở GDNN để phối hợp trong việc tư vấn, đào tạo nghề cho người lao động. 

Ở nhiều địa phương, khi người lao động thất nghiệp, chỉ có một vài nghề. Cơ sở dạy nghề ở đó cũng chỉ có dăm bảy nghề, trung tâm dịch vụ việc làm có tổ chức đào tạo thì cũng chỉ 2-3 nghề thì không đáp ứng được nhu cầu. Do đó không chỉ cơ sở GDNN trên địa bàn đó mà cả ở các địa bàn khác mà có các ngành nghề khác cũng có thể đến để tư vấn, tổ chức, hỗ trợ cho người lao động. 

Bởi nếu như họ không tìm được nghề đào tạo phù hợp người lao động sẽ không tham gia. Vì vậy, cần phải tạo cho họ cơ hội tiếp cận nhiều hơn cơ hội việc làm, đào tạo nghề, để lựa chọn dễ dàng hơn. 

Việc tư vấn cho người lao động ở nhiều chỗ vẫn chưa đến nơi, mới chỉ hướng họ học nghề này rồi sẽ có việc làm, mức thu nhập từng này… Trong khi đó, việc quan trọng là tư vấn cho họ là khi học xong, họ có việc làm, thu nhập và có thể học cao hơn, hoàn thiện mình hơn và có khả năng phát triển ở những vị trí tốt hơn… Như thế mới tạo động lực và niềm tin cho người lao động

TS Nguyễn Hoàng Hà: Tôi nghĩ đây là quá trình lên kế hoạch trung và dài hạn. Hiện nay Tổng cục giáo dục nghề nghiệp đã đưa ra đề án “Nâng tầm kỹ năng Việt Nam”. Vấn đề quan trọng, mấu chốt vẫn là kỹ năng. 

Tiếp đến là vai trò của từng chủ thể tham gia vào thị trường lao động là rất quan trọng và nhận thức cũng phải rất khác. Người lao động cần chủ động, không chỉ đến trung tâm dịch vụ việc làm trông đợi người ta tìm việc cho mình, mà cần tích cực kết nối hơn ngay trong quá trình đào tạo nghề, tham gia những giai đoạn như thực tập… 

Với vấn đề nâng tầm kỹ năng chúng ta không thể làm theo kiểu phong trào. Trước đây các bậc phụ huynh có phong trào cho con em đi học đại học, tức là mọi người đi học đại học thì con mình cũng phải vậy, không cần biết nó học cái gì. Giờ thì khác, phải tìm hiểu cụ thể, chủ thể thích cái gì và muốn học lĩnh vực gì, thị trường lao động có nghề gì phù hợp…

Nhà báo Diệu Bình: Từ thực tế công tác, kinh nghiệm của mình, các vị khách mời có kiến nghị chính sách gì để đào tạo nghề, tạo việc làm phát huy vai trò tốt hơn cho công cuộc giảm nghèo bền vững của Việt Nam? 

TS.Nguyễn Hoàng Hà: Theo tôi hiện có mấy vấn đề cần chú ý. 

Thứ nhất, cần có chính sách để tăng cường khả năng tiếp cận với GDNN. Hiện nay có những địa phương số cơ sở GDNN rất ít, làm sao để tăng cường được khả năng tiếp cận của người lao động tốt hơn, khuyến khích, thậm chí hỗ trợ tiền ăn, tiền đi lại. 

Thứ hai, sự hợp tác giữa cơ sở đào tạo và DN. Cả chu kỳ GDNN phải có sự gắn bó mật thiết giữa DN và nhà trường. Ở Thụy Sĩ có mô hình nhà trường tại nơi làm việc, gần như DN là công xưởng của cơ sở đào tạo. 

Hiện ở Việt Nam DN mới chỉ tham gia vào tiến trình đào tạo nhân lực khoảng 40%, hướng phấn đấu là đạt 80%. Ở các mô hình khác, DN thông qua các chương trình học bổng, hỗ trợ chính là họ tham gia thúc đẩy sinh viên đó học nghề và họ theo dõi sinh viên đó trong suốt quá trình học của người nhận học bổng đến khi ra trường, hồ sơ của sinh viên này đã được DN biết rõ ràng. DN chỉ gọi người đó đến làm cuộc phỏng vấn ngắn mà không cần các thủ tục phỏng vấn khác. 

Việt Nam phải làm sao để thúc đẩy, tạo ra cơ hội để các sinh viên tốt nghiệp GDNN khi ra trường có tay nghề, tham gia vào chuỗi phát triển kinh tế, có thu nhập tốt, phục vụ nhu cầu bản thân và gia đình. 

Ngoài ra, Việt Nam rất tự hào một số ngành xuất khẩu tốt như dệt may, điện tử… Tuy nhiên chúng ta mới tham gia chuỗi cung ứng có giá trị thấp là lắp ráp, gia công nhiều hơn. Nếu muốn lên bậc thang giá trị cao hơn, thì vấn đề đào tạo lực lượng lao động sẽ rất khác, đòi hỏi kỹ năng rất khác. 

Việt Nam đang hướng đến khát vọng trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045. Muốn vậy, chắc chắn không thể dừng lại ở lực lượng lao động chất lượng thấp như hiện nay mà phải hướng đến lực lượng lao động chất lượng cao, đầy tiềm năng để có thể tham gia vào nhiều thị trường lao động khác nhau.

Chúng ta vẫn hay nói về số lượng người tham gia thị trường lao động, số lượng người ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng… nhưng đồng thời phải xem chất lượng lao động, tiền lương, điều kiện làm việc…

Ông Đào Trọng Độ: Chúng ta có hệ thống chính sách tương đối đồng bộ, bao trùm các lĩnh vực, nhưng cần thực hiện một cách thực chất, để tạo ra sự chuyển biến. Từ chính sách cho đến thực tiễn phải có sự đồng bộ. Nghị quyết Đại hội Đảng XIII coi đào tạo nguồn nhân lực là 1 trong 3 đột phá chiến lược. Muốn vậy, cần có sự đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, đến mỗi người dân.

Những năm gần đây, với tác động của đại dịch, chuyển đổi số, số hóa… thực tiễn đã thay đổi rất nhiều, do đó một số chính sách sẽ lạc hậu và không còn phù hợp. Ví dụ hiện chúng ta đang phải trình sửa đổi Luật việc làm vì có nhiều quy định của 10 năm trước đến nay đã không còn phù hợp nữa, trong đó cần có những quy định rất cụ thể về đào tạo, về các chính sách, về hỗ trợ cho người lao động, đặc biệt lực lượng đang làm việc trong nền kinh tế. 

Tiếp theo là cần có chính sách mạnh hơn cho người lao động. Chúng ta vẫn nói đến việc học tập suốt đời, quá trình tự học, tự phát triển, thích ứng nhưng lại chưa có hỗ trợ thỏa đáng cho người lao động không làm việc trong các DN. Nếu có thể, chúng ta cần có chính sách tín dụng cụ thể cho người lao động. Ví dụ ở Singapore mỗi người sẽ có một cái thẻ phát triển kỹ năng. Nếu người lao động có nhu cầu đào tạo, họ sẽ chủ động đến các cơ sở để học, nâng cao trình độ. 

Việt Nam đã có những chiến lược phát triển, ngành nghề ưu tiên phát triển, chúng ta cần có chính sách mạnh hơn trong vấn đề đào tạo nhân lực cho lĩnh vực đó. Ví dụ, trước đây giáo viên thiếu, các trường sư phạm được miễn học phí. Tương tự như vậy, với đào tạo nghề, những lĩnh vực thiếu, những lĩnh vực cần cho phát triển kinh tế cũng cần có chính sách khuyến khích, chẳng hạn ưu tiên miễn học phí… 

Cần có quy định về những ngành nghề phải sử dụng lao động qua đào tạo, để khuyến khích DN, khuyến khích người dân phải đào tạo. 

Ngoài ra, cần có chính sách để tăng cường trách nhiệm xã hội của DN đặc biệt là các DN lớn không phải chỉ tuyển dụng nữa mà phải có trách nhiệm tham gia quá trình đào tạo. Phải có cơ chế mang tính pháp lý cụ thể để vừa khuyến khích họ vừa quy định được trách nhiệm của họ khi tham gia. 

Đây là một số đề xuất mà tôi cho rằng chúng ta nên nghiên cứu để rà soát, hoàn thiện, bổ sung làm sao tối ưu hóa sự phát triển thị trường lao động, đặc biệt là cho các đối tượng yếu thế, như người ở vùng đồng bào DTTS&MN, người nghèo, người có thu nhập thấp, công nhân lao động.

Thưa quý vị độc giả, buổi tọa đàm đến đây là kết thúc, hẹn gặp lại quý vị độc giả trong các chương trình sau. Xin trân trọng cảm ơn các quý vị khách mời đã dành thời gian tham gia Tọa đàm cùng Báo VietNamNet.

Trần Kiên, Thanh Bình, Duy Tiến, Trà My, Đình Thành, Thanh Sơn