Trần nợ công của Mỹ là gì và có gì trong cuộc đàm phán Biden-McCarthy?

Một thỏa thuận về trần nợ công của Mỹ đã được thống nhất chỉ vài ngày trước thời hạn vỡ nợ nhưng giờ đây thoả thuận này phải được Thượng viện Mỹ thông qua.

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden tổ chức các cuộc đàm phán về giới hạn nợ với Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ Kevin McCarthy tại Phòng Bầu dục ở Nhà Trắng ở Washington, Hoa Kỳ, ngày 22/5/2023. Ảnh: Reuters

Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu đồng ý với thỏa thuận mà Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ viện Mỹ Kevin McCarthy đạt được để tăng số tiền mà nước Mỹ có thể vay. Điều này có nghĩa là lần đầu tiên trong lịch sử, quốc gia này đã không thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán nợ.

Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đã thông qua một thỏa thuận thỏa hiệp để nâng trần nợ với điều kiện chính phủ cắt giảm chi tiêu liên bang.

Tuy nhiên, Đạo luật Trách nhiệm Tài chính (Fiscal Responsibility Act) vẫn phải được Thượng viện Mỹ thông qua để trở thành luật. Đạo luật này sẽ được Thượng viện gấp rút thông qua trước thứ Hai ngày 5/6, ngày mà Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cảnh báo rủi ro vỡ nợ của Mỹ, điều có thể gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu.

Các nhà lập pháp của Mỹ đã tranh luận trong nhiều tuần về việc nên tăng hay đình chỉ cái gọi là “trần nợ”, quyết định số tiền mà Chính phủ Mỹ có thể vay.

Trần nợ của Mỹ là gì?

Từ năm 1917, Mỹ đã có luật quy định giới hạn đối với tổng số nợ mà Chính phủ được phép có. Giới hạn đầu tiên được đặt ở mức 11,5 tỷ USD (9,2 tỷ bảng Anh).

Mức trần này có phần tương đồng với các quy tắc tài chính mà Thủ tướng tự đặt ra ở Vương quốc Anh, nhưng được đặt ở bên ngoài. Hunter nói: “Vấn đề chính là nó được xử lý hoàn toàn tách biệt với các quyết định về việc chính phủ nên chi tiêu bao nhiêu và nên đánh thuế ở mức nào”.

Quốc hội thông qua các dự luật chi tiêu mới sẽ làm tăng mức nợ, nhưng trần nợ không được nâng lên cho đến khi nó sắp bị vi phạm.

Con số này cũng được đặt dưới dạng con số tiền mặt chung chung, không tự động thay đổi để phản ánh các yếu tố như tăng trưởng dân số hoặc lạm phát, hoạt động như một cái thắt đai dạ dày.

Nợ của Chính phủ Mỹ đã tăng lên dưới mỗi thời tổng thống kể từ thời Tổng thống Herbert Hoover. Đồng thời, trần nợ đã được nâng lên hơn 100 lần và hiện đứng ở mức 31,4 nghìn tỷ USD.

Nợ của Chính phủ Mỹ đã chạm mức này vào tháng 1, điều đó có nghĩa là Chính phủ không thể vay thêm tiền một cách hợp pháp.

Trần nợ có thể được nâng lên một lần nữa, nhưng chỉ khi nó có thể được bỏ phiếu thông qua tại Hạ viện, nơi có đa số là thành viên của đảng Cộng hòa. Khi đảng cầm quyền không chiếm đa số trong Hạ viện – như trường hợp hiện tại – thì không có gì đảm bảo rằng một thỏa thuận sẽ được đáp ứng.

Các cuộc chiến trần nợ trong quá khứ thường kết thúc bằng một thỏa thuận được dàn xếp vội vàng trong những giờ đàm phán cuối cùng, do đó tránh được tình trạng vỡ nợ.

Vào năm 2011, cuộc chiến đàm phán đã dẫn đến việc hạ xếp hạng tín nhiệm của quốc gia này. Các “cựu chiến binh” của “trận chiến” đó cảnh báo rằng tình hình hiện tại thậm chí còn nguy hiểm hơn vì sự chia rẽ ngày càng lớn.

Có gì trong thỏa thuận trần nợ công của Mỹ?

Tổng thống Mỹ Biden mô tả thỏa thuận này là “một bước tiến quan trọng” và là “tin tốt cho người dân Mỹ, vì nó ngăn chặn những gì có thể là một vụ vỡ nợ thảm khốc và sẽ dẫn đến suy thoái kinh tế, tài khoản hưu trí bị tàn phá và hàng triệu việc làm bị mất”.

Tuy nhiên, ông Biden lưu ý rằng thỏa thuận đòi hỏi sự thỏa hiệp. “Không phải ai cũng đạt được điều họ muốn”, ông Biden nói. “Đó là trách nhiệm của Chính phủ”, ông nói thêm.

Thỏa thuận giữ trần nợ của Mỹ ở mức 31,4 nghìn tỷ USD trong hai năm cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tiếp theo vào năm 2024.

Điều này cho phép Kho bạc Mỹ tiếp tục vay tiền để thanh toán hóa đơn đúng hạn.

Thoả thuận khác với dự luật trước đây được các đảng viên Cộng hòa tại Hạ viện thông qua, theo đó đồng ý tăng giới hạn nợ thêm 1,5 nghìn tỷ USD nhưng chỉ với điều kiện là chi tiêu sẽ bị cắt giảm xuống mức cho đến năm 2022 và sau đó giới hạn ở mức tăng trưởng 1% mỗi năm.

Để đổi lấy việc loại bỏ giới hạn vay, đảng Cộng hòa đã yêu cầu một loạt nhượng bộ chính sách trong hai năm tới. Các thoả thuận bao gồm”

  • Cắt giảm chi tiêu tùy ý phi quốc phòng, chẳng hạn như thực thi pháp luật trong nước, quản lý rừng và nghiên cứu khoa học. Chi tiêu tùy ý sẽ được giữ nguyên trong năm tài chính 2024 và giới hạn ở mức tăng trưởng 1% vào năm 2025, thấp hơn tỷ lệ lạm phát.
  • Thu lại khoảng 30 tỷ USd tiền chưa tiêu từ các chương trình liên bang cung cấp hỗ trợ tài chính trong đại dịch
  • Hủy bỏ khoảng 1,4 tỷ USD tài trợ do Đảng Dân chủ dành để hỗ trợ Sở Thuế vụ truy quét trốn thuế, với 20 tỷ USD khác được tái sử dụng trong hai năm tới
  • Xóa bỏ việc đóng băng đối với các khoản hoàn trả khoản vay của sinh viên mà chính quyền ông Biden đã đưa ra để cung cấp cứu trợ cho những người đi vay trong thời kỳ Covid.
  • Đưa ra các yêu cầu công việc mới đối với người trưởng thành trong độ tuổi từ 50 đến 54, những người thuộc diện được nhận tem thực phẩm cho đến năm 2025
  • Theo Văn phòng Ngân sách Quốc hội phi đảng phái, những hạn chế chi tiêu này sẽ làm giảm thâm hụt nợ 1,5 nghìn tỷ USD trong thập kỷ.

Trần nợ công của Mỹ tăng qua các năm.

Điều gì sẽ xảy ra nếu Chính phủ Mỹ vỡ nợ?

Chính phủ Mỹ bị thâm hụt tài chính, có nghĩa là họ chi nhiều tiền hơn số tiền thu được từ thuế.

Điều này dẫn đến hai hậu quả. Đầu tiên, quy mô khoản nợ tăng lên hàng năm, và do đó, chi phí phục vụ nó cũng tăng theo. Thứ hai, nếu không thể vay thêm tiền, Chính phủ sẽ không thể trang trải mọi chi phí.

Số dư tiền mặt của Kho bạc Mỹ vào cuối tháng 4 là 316 tỷ USD. “Câu hỏi đặt ra là khi nào số tiền đó sẽ hết?”, Hunter nói.

Khi số tiền này cạn kiệt, Chính phủ Mỹ sẽ chỉ có thể chi tiêu số tiền mà họ nhận được từ thuế. Do đó, Chính phủ Mỹ sẽ không còn khả năng đáp ứng tất cả các nghĩa vụ chi tiêu công, chẳng hạn như trả lương cho khu vực công, hoặc trả tất cả các khoản nợ hiện có.

Về lý thuyết, nếu Mỹ không trả được nợ, điều đó sẽ khiến giá trị các khoản nợ chính phủ của nước này rơi vào tình trạng hỗn loạn.

Phần lớn (69%) nợ của Mỹ được nắm giữ trong nước Mỹ. Cục Dự trữ Liên bang nắm giữ 21,2%, 12% là quỹ hưu trí hoặc quỹ tương hỗ, trong khi các hộ gia đình Mỹ sở hữu 6,7%.

Hơn 31% nợ của Mỹ thuộc sở hữu nước ngoài. Nhật Bản là quốc gia nắm giữ trái phiếu Kho bạc Mỹ lớn nhất, với khoảng 1,1 nghìn tỷ USD. Trung Quốc và Vương quốc Anh nắm giữ lần lượt 867 tỷ USD và 654 tỷ USD.

Nhưng nếu Mỹ vỡ nợ, hậu quả có thể sẽ lớn hơn nhiều.

“Nợ của Chính phủ Mỹ về cơ bản được coi là tài sản an toàn nhất trong hệ thống tài chính và cũng có rất nhiều khoản nợ như vậy. Kết quả là, một phần rất lớn giá của mọi tài sản tài chính khác hiện có theo một cách nào đó bắt nguồn từ giá nợ của chính phủ Hoa Kỳ”, Hunter nói.

Hunter cho biết nếu Mỹ vỡ nợ, chi phí đi vay ở Mỹ sẽ tăng đột biến, từ đó sẽ gây ra sự gia tăng tương ứng về chi phí đi vay trên toàn thế giới.

“Về cơ bản, mọi tài sản an toàn đột nhiên trông kém an toàn hơn rất nhiều so với trước đây. Nếu đột nhiên có nguy cơ bị vỡ nợ thì về cơ bản, tất cả các vụ cá cược đều bị hủy bỏ về những gì đang diễn ra trên thị trường tài chính”, ông nói thêm.

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế đã cảnh báo: “Việc không đạt được thỏa thuận nào sẽ dẫn đến tình trạng mất trật tự kinh tế vĩ mô nghiêm trọng hơn do quy mô thâm hụt ngân sách Liên bang hiện tại và các hành động cần thiết để giải quyết vấn đề này một cách nhanh chóng”.

.